Gương hiếu thời xưa

chữ hiếu cổ
Trong sách “Đại Nam chính biên liệt truyện” có ghi lại một số tấm gương hiếu thảo với cha của người xưa như sau: Thuở ấy, ở huyện Nga Sơn, trấn Thanh Hóa, có một người tên là Khang. là Nguyên. Năm 7 tuổi, cô ruột lấy Mai Sĩ Khải, không có con, nuôi Khang làm con, đổi họ là Mai. Khang là người đoan chính, liêm khiết, hiếu thảo với cha mẹ, được khen ngợi, sau được phong làm lý trưởng 16 năm, làng không có chuyện tham danh lợi. Một mình ông chịu 4 đại tang, đều xây nhà trong mộ, dấu chân cọp đi khắp bên mộ mà không xúc phạm. Sáng hôm sau, người mất lợn lần theo dấu vết tìm được đem về kể lại cho mọi người.
Lại có một người ở Nghệ An làm ăn, từ Bắc Thành về, đường tắc nên ban đêm ngủ lại nhà Khang và chôn bạc ở vườn sau. Sáng sớm hôm sau vội vàng bỏ quên số bạc này. Mấy hôm sau, con Khang trồng cây ở vườn sau, bắt được 60 lạng bạc, đem đến cho Khang. Khang bảo tôi cất đi. Một hôm khác, người lái buôn đến, Khang hỏi, người lái buôn đem sự thật nói với anh ta, Khang thấy đúng bèn trả lại. Đại chúng kính trọng liêm khiết, phong ông làm Tổng thống. Hơn 20 năm, Khang công công phần nào thành thạo, không có sai sót gì. Sau vì tuổi già xin dịch. Khang đem lễ nghĩa dạy con cháu, lấy hòa thuận làm khuôn mẫu cho làng xóm. Năm 1827, Cố vương ban thưởng bạc, ban thưởng ở cửa bốn chữ: “Hành Nghĩa” (Hành Nghĩa), nghĩa là “Hành Nghĩa đáng làm gương”. Thằng Đông, con ông Khang, quen nề nếp nên có tiếng ngoan giống cha.
Nguyễn Văn Tựu là người huyện Đồng Xuân, thị xã Phú Yên, rất hiếu thảo, dù đã có vợ con nhưng vẫn ở với cha mẹ, sớm tối thăm nom, thường đón chúc cha mẹ từ trước, và chăm sóc anh hết lòng. Khi cha mẹ mất, Tú làm một cái nhà cạnh mộ, nằm trên nền đất bằng rơm, tối không về sớm. Cảnh nhà hiu quạnh, nghèo khó nhưng sống có nuôi, chết có chôn, làng xóm khen là hiếu thảo. Năm Minh Mạng thứ 4, 1823, cố vua thưởng tiền và xuống chiếu ở cửa có biển đề bốn chữ: “Hiếu-Hiếu-Hiệu-K-Phúc-Thập”, tức là Hiếu- Hiếu-Hiếu-Hiếu- (Hiếu-HOHH)
Năm Minh Mạng thứ 8 – 1827, Từ vào kinh làm lễ, được triệu về ra mắt, được vua ban thưởng bạc, quần áo rồi cho về. Con trai anh Thiều cũng hiếu thảo như bố em, khi bố ốm đau không rời sớm tối, anh không ăn, Thiều cũng không ăn, hiếu thảo rất chuẩn mực. Năm Minh Mạng thứ 18, vua ban thưởng 20 lạng bạc, 2 tấm lụa và tấm biển đề 4 chữ: “Khắc nhập hiếu đạo”, nghĩa là: Nối chí hiếu thảo với cha mẹ. Năm Minh Mạng thứ 21, Thiệu hết lòng để tang cha, cả làng đều xúc động. Xây nhà dưới mộ 3 năm. Năm Thiệu Trị thứ 3, vua ban thưởng 10 lạng bạc và 2 tấm lụa.
Nguyễn Cư Sỹ, người huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên, cháu nội của vị công công thời mới dựng nước là Tấn Minh, bề tôi của Nguyễn Cư Trinh. Năm Minh Mạng thứ 3 – 1822, Cư Sỹ mới 14 tuổi, cha là Cử Tuấn làm kinh lược Quảng Trị vì lòng tham nên bị kết tội. Cu Sỹ xin đổi hình phạt cho cha, vua ban cho rồi bắt xiềng lại cho đi làm quan. Cù Sĩ vui vẻ nhận lấy, không chút do dự. Vua nghe tin mừng nói: “Cu Trinh có đứa cháu ngoan quá! sau đó tha thứ cho tôi. Về đến nhà không kịp, cha mẹ ốm đau, sớm tối chăm sóc, không chậm trễ. Năm Minh Mạng thứ 8, vua xuống chiếu nêu hạn ngạch ở cửa là: “Hiếu-hương-hà-khả”, nghĩa là: ‘Kiêu đức đáng noi gương’. Sau đó ông được cho ở nhà đọc sách, rồi làm quan đến chức Bố chính ở Gia Định.
Lại Phan Đình Nghị người huyện Thạch Hà, thị xã Hà Tĩnh, cũng sớm mồ côi cha, thờ mẹ hiếu thảo, bọn cướp đến cướp nhà, mẹ bị tù đày, Nghị xin được lấy thân thay. Bọn cướp tha cho mẹ và đưa Nghi đi. Sau đó, làng đuổi theo nên bọn cướp bỏ Nghị lại, dân làng khen anh có hiếu. Năm Minh Mạng thứ 18, cả hai người đều được vua ban thưởng bạc và treo biển khen ở cửa.
Cuộc thảo luận:
Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ kính cha/ Làm tròn chữ hiếu mới là đạo con. Cho đến nay, không ai biết những từ này có từ khi nào, nhưng có một điều chắc chắn rằng là người Việt Nam thì không ai không biết hoặc chưa từng nghe qua dù chỉ một lần. Bởi lẽ, ngay từ khi còn nằm trong nôi, chúng ta đã được nghe mẹ, cha hay ông bà hát ru. Lớn lên, khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã được thầy cô dạy về ý nghĩa của những lời vàng ngọc trên dưới. Và nhà triết học vĩ đại nhất mọi thời đại, Khổng Tử, cũng dạy rằng một trong những tội lỗi lớn nhất của con người là bất hiếu.
Vâng, điều đó không đúng. Vì dù có sinh ra, một người không coi mình ra gì thì có còn đáng làm người? Và hôm nay, nhắc lại giai thoại trên, không ít người chạnh lòng. Bởi hậu thế có nhiều gia đình, khi tài sản của cha mẹ là cái nhà, cái ruộng đã chia hết cho con cái thì cũng là lúc con cái phân chia trách nhiệm nuôi cha, mẹ hàng ngày, hàng tháng. Có những người sau khi được mọi người giúp đỡ thì có một nơi để ở, nhưng ngay sau đó lại bị cha mẹ đuổi ra khỏi nhà. Thật buồn và không biết đến bao giờ lòng hiếu thảo ngày nay mới bằng ngày xưa!?
Theo Baihocdoisong.com
xem thêm thông tin chi tiết: Gương hiếu thời xưa
Chuyên mục: Chuyện Xưa Tích Cũ
#Gương #hiếu #thời #xưa