Đại nhân, đại nghĩa

Bạn đang xem bài viết: Đại nhân, đại nghĩa tại tranquoctoan.edu.vn

Đại nhân, đại nghĩa

Dù là làm cố vấn cho Lê Lợi hay sau này làm quan cho nhà Hậu Lê, Nguyễn Trãi luôn giữ vững tư tưởng nhân nghĩa. Tấm lòng nhân nghĩa của Người gắn liền với tư tưởng vì dân, vì dân. Điều này được nêu trong đoạn mở đầu của “Bình Ngô Đại Cáo”: Nhân là để cho dân được yên. Quân phạt trước lo trừ bạo. Đây cũng chính là lý do nghĩa quân Lam Sơn khởi nghĩa chống giặc Minh, tất cả đều vì mục tiêu trừ bạo để nhân dân thoát khỏi lầm than, được hưởng cuộc sống thái bình, ấm no. Nguyễn Trãi đã tổng kết chiến thắng Lam Sơn là chiến thắng của nhân nghĩa: Đem chính nghĩa đánh tan tàn ác. Dùng từ bi để thay thế bạo lực

Đầu năm 1427, Nguyễn Trãi viết hàng chục bức thư vào thành Đông Quan chiêu mộ Vương Thông, sai vào Nghệ An chiêu mộ Thái Phúc cũng như chiêu dụ các tướng nhà Minh ở Tân Bình, Thuận Hóa và một số cứ điểm. khác. Kết quả đạt được rất khả quan: Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa thành đứng đầu năm 1427. Bản thân Nguyễn Trãi từng cùng tướng họ Đường dụ thành Tam Giang, làm quan trấn thủ thành này. Lưu Thanh ra hàng vào khoảng tháng 4 năm 1427. Ông cũng năm lần đưa mình vào thành Đông Quan. Lúc bấy giờ, quân Minh ở Giao Chỉ bị cô lập ngày càng nhanh, chỉ còn cố thủ được ở một số thành như Đông Quan, Cổ Lộng, Tây Đô…


Tư tưởng nhân nghĩa của ông còn thể hiện ở tấm lòng hiếu thảo, khoan dung độ lượng với mọi người, không phân biệt quân Nam hay quân Minh. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép rằng: Tháng 11 năm 1427, tướng Vương Thông và viên quan nhà Minh là Sơn Thọ sai thiên thần hộ mệnh họ Hạ mang chiếu thư cầu hòa, xin mở đường lui. Lê Lợi nhận lời, gửi lại thổ sản và hải sản. Tuy nhiên, Vương Thông vẫn do dự, chưa quyết định, bèn đem quân ra đánh nhưng bị nghĩa quân đánh bại, suýt bị bắt.

Ngày 22 tháng 11 năm 1427, Vương Thông và Lê Lợi làm lễ tuyên thệ Đông Quan ở cửa nam thành, hứa đến ngày 12 tháng 12 năm 1427 sẽ rút hết quân về nước. Binh lính đến yết kiến, khuyên Lê Lợi đánh thành Đông Quan, giết hết quân Minh để trả thù cho ách bạo tàn mà nhà Minh đã gây ra ở Đại Việt. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi đã đặt đại nghĩa lên hàng đầu, phân tích chỗ mạnh, chỗ yếu của quân địch và khuyên Lê Lợi nên giảng hoà. Theo ông, đánh thành phục thù lúc đó không khó nhưng sau này dễ bị nhà Minh trả thù, “thà người thua cùng cảnh mà có nhiều tiền mà hòa với họ để tạo phúc”. cho hai chúng sinh. nước”. Lê Lợi nghe theo, Nguyễn Trãi đã viết về việc này trong “Bình Ngô Đại Cáo” như sau: Họ tham sống sợ chết, nhưng lại thật lòng hiếu thảo. Thà thu toàn quân, để dân yên.

Trong sách “Đại Việt sử ký thực lục” có đoạn ghi lại việc này như sau: Chỉ có Hành Nguyên Trãi ở nơi hội kiến, được xem bức thư bọc sáp của Vương Thông gửi về. nước có câu “Không thèm đất một lần. Góc khuất quân nhọc ngàn dặm; giả sử lấy quân làm số quân đánh lúc đầu thì có sáu, bảy, tám”. tướng như bọn Trương Phụ thì đánh được; đánh được thì không giữ được”, cho nên biết chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, chỉ nắm vững bên hòa mà thôi. Lê Lợi nghe theo, hạ lệnh rút quân cứu viện.

Đầu năm 1428, trước khi chính thức lên ngôi vua, Bình Định Vương đã tổ chức đại hội các tướng lĩnh văn võ, định ban thưởng cho ông. Nguyễn Trãi được mang quốc tịch (Lê) và được phong Quan Phúc hầu, tiếp tục giữ chức Nhập Hành khiển như cũ, được khắc tên ông trên biển Khai Quốc Công Thần. Ngày 29 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi tại điện Kính Thiên ở Đông Kinh, xá tội cho thiên hạ và giao cho Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô Đại Cáo” để báo cáo với cả nước về chiến thắng quân Minh. Trong thời gian làm quan, ông đã có tư tưởng xây dựng đất nước thanh bình, trên vua hiền thánh, dưới không còn tiếng oán hận.

Cuộc thảo luận:


Xem thêm: Đổ lỗi cho nhà vua

Như vậy, trong những năm kháng chiến chống quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi đã chủ trương dựa vào dân để đánh giặc, cứu nước. Khi kháng chiến thắng lợi, Người còn thấy phải lo cho dân dựng nước. Do luôn “lo việc dân phải lo, vui sau sướng người” nên Nguyễn Trãi sống giản dị, cần kiệm, liêm chính. Với quan điểm và lối sống đó, Nguyễn Trãi đã được coi là nhà tư tưởng lớn của Việt Nam. Nét nổi bật trong tư tưởng của Nguyễn Trãi là sự hòa quyện, chắt lọc Nho, Phật, Lão và trong đó có sự kết hợp chặt chẽ với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam lúc bấy giờ, càng nổi bật. Cả hai đều anh hùng, yêu nước, thương dân.

Và tấm lòng cao cả, chính trực của ông đúng như lời của nữ văn sĩ Yveline Féray, người đã viết nên tiểu thuyết lịch sử vĩ đại “Dix Mille Printemps” (NXB Julliard, F, 1989), rằng: Cái gì đáng vượt lên mang ý nghĩa thời đại và vĩnh cửu , Nguyễn Trãi đã hướng chiến tranh đến hòa bình vĩnh viễn. Vị minh quân ấy không sánh được với thiên tính của một nhà thơ yêu hòa bình từ tận đáy lòng, nhưng bằng trí tuệ của một tình yêu, ông đã đặt đạo lý vào lòng chiến tranh, đem tình thương chiến thắng sự tàn bạo. . Ngài không muốn kẻ thù gieo mầm ác trong lòng họ, không muốn họ mất gốc rễ tốt lành mà trả lại cho họ tinh thần cao thượng, giúp họ thấy được sự bất công phi lý của sự xâm hại lẫn nhau. Đó là đi trên con đường Đại Tự Tại của Dân tộc, một dân tộc luôn yêu chuộng nhân loại và hòa bình. Vì vậy, ông không chỉ là nhà thông thái của Việt Nam mà còn của cả phương Đông và nhân loại trong thời kỳ phong kiến…

Theo Baihocdoisong.com

Xem thêm: Cuộc sống của hoạn quan


xem thêm thông tin chi tiết: Đại nhân, đại nghĩa

Chuyên mục: Chuyện Xưa Tích Cũ
#Đại #nhân #đại #nghĩa

Related Articles

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Back to top button