Chuyện về Tống Trân

Truyện Tống Trân
Câu chuyện về Trạng nguyên Tống Trân còn được biết đến qua truyện Nôm khuyết danh nổi tiếng “Tống Trân – Cúc Hoa”. Tục truyền, vào thời Tiền Lý, ở xã An Đổ, tổng Võng Phan, huyện Phù Dung (nay là thôn An Cầu, xã Tống Trân, huyện Phù Cừ) có một người họ Tống tên là Thiếu Công, dòng dõi thơ phú, nghèo khó. nghèo. rất hiền lành, đức độ, hiếu thảo.
Tống Thiếu Công kết hôn với một người phụ nữ xã Phú Oanh, cùng huyện tên là Đào Thị Cương. Vợ chồng sống rất nhân từ, tu nhân tích đức, làm việc thiện, công lao thấu trời, trời cử thiên sứ xuống đầu thai. Ở tuổi lục tuần, hai vợ chồng có một đứa con. Bà Cường mang thai được hơn 11 tháng đến nay là ngày 15 tháng 4 năm Ất Hợi (556) bà hạ sinh một bé trai khôi ngô tuấn tú và đặc biệt suốt 3 ngày 3 đêm trong nhà lúc nào cũng tỏa ánh hào quang. , thế là hai người đặt Tên tôi là Tống Trân. Tống Trân lớn nhanh như thổi, đến năm 3 tuổi đã tinh thông mọi quy luật của âm dương. Khi cha mất, anh cùng mẹ đi cầu tài lộc khắp nơi, rồi anh lấy được người vợ tên Cúc Hoa, hiền thục nết na. Vốn tư chất thông minh, học một biết mười, mới 5 tuổi, Tống Trân đã thông thiên văn, dưới thông tường địa lý.
Khi Tống Trân lên 7 tuổi, vua Lý Nam Đế (544-548) mở khoa thi tuyển nhân tài vào ngày 29 tháng 9. Tống Trân dự thi, cả 3 kỳ đều đỗ thủ khoa. Ngày mồng 1 tháng 2 năm Quý Sửu (563), Tống Trân được phong Giáp Ất đứng thứ nhất, được vua khen là “quốc sĩ vô song, tướng tài đứng thứ hai”, nghĩa là “duy nhất học sĩ”. của cả nước có một Tống Trân, một tướng tài không người thứ hai”. Ngày 10 tháng 4, vua ban cờ trạng nguyên, gấm lụa, vàng mã để trạng nguyên về vinh quy bái tổ. Về làng để tỏ lòng thành kính, thăm hỏi hai bên nội ngoại, khao làng được một tháng thì ông cưới bà Cúc Hoa làm vợ.
Sau 3 tháng, vua sai ông ra Bắc. Vua phương Bắc thấy nước non, tỏ ý khinh thường nên muốn thử tài nước Nam. Tống Trân có tài đối đáp nên được vua phương Bắc khen là đệ nhất nhân tài trong 18 nước chư hầu, phong là “Trạng nguyên hai nước”. Vua Tàu muốn gả con gái cho nhà nước nhưng Tống Trân không chịu nên vua nhốt ông và binh lính ở Linh Long 100 ngày không cho ăn, uống, nội, ngoại. Tống Trân sai quân ăn tượng Phật nấu chè xanh, uống nước cúng Phật (nước lạnh). Sau 100 ngày, thấy nước và binh lính vẫn mập mạp khỏe mạnh, vua Trung Hoa càng khôi phục địa vị và được phong là “Phụ vương tối cao Nam Tống đại vương”.
Sau 10 năm đi truyền đạo, Cúc Hoa ở nhà vẫn chờ chồng và một lòng hiếu thảo với mẹ chồng. Nhưng cha cô ép cô lấy một người đàn ông giàu có. Tống Trân giả dạng ăn mày để dò tình, biết Cúc Hoa vẫn chung thủy với mình, khen Cúc Hoa đủ tam tòng, tứ đức. Tống Trân đón vợ về gia đình đoàn tụ. Vua biết chuyện phong Cúc Hoa làm “Quận phu nhân”. Khi Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục lên ngôi lấy hiệu là Triệu Việt Vương, mời Tống Trân làm “Phụ quốc đại thần”.
Ở tuổi 60, Tống Trân trở lại dạy học với mong muốn tất cả trẻ em nghèo đều được đến trường. Cúc Hoa không có con, lại đau bụng, ba ngày sau thì mất, ngày 3 tháng 3. Tống Trân mất ngày 5 tháng 5 năm Tân Hợi (621). Sau đó, Tống Trân được truy tôn là “Phúc Thượng Công”.
Hiện nay, tại Văn Miếu Xích Đằng (Hưng Yên) có một tấm bia ghi tên Tống Trân, tấm bia này được lập vào cuối thời Nguyên. Ở làng An Cầu có đền thờ Tống Trân. Người đời sau viết truyện Tống Trân – Cúc Hoa, một tác phẩm thơ Nôm nổi tiếng ca ngợi tài năng, tình yêu và lòng trung thành của Tống Trân – Cúc Hoa. Có người còn làm đôi câu đối về Tống Trân, dịch nghĩa như sau: Tám tuổi đỗ Tràng Nam, sinh nước Việt; Mười năm về phương Bắc, mang may mắn đến kiếp sau.
Cuộc thảo luận:
Chuyện về trạng nguyên Tống Trân là vậy, nhưng trong lịch sử khoa cử thời phong kiến ở nước ta không thấy ghi chép về trạng nguyên Tống Trân. Điều đó cho thấy đây là nhân vật hư cấu, là sự sáng tạo của nhân dân, và bản thân tác giả dân gian luôn đặt niềm tin, ước mơ vào sự sáng tạo đó. Vì vậy, nhân dân địa phương từ bao đời nay đều tin rằng nhân vật Tống Trân là có thật. Sau đó, Tống Trân được lý lịch rất rõ ràng, cụ thể: Sinh ở xã An Đổ, huyện Phù Dung, cha là Tống Thiếu Công, mẹ là Đào Thị Cương… Tống Trân sống vào thời Tiền Lý, làm quan giáo viên. liên quan đến Lý Nam Đế, rồi theo Triệu Quang Phục.
Điều này vô lý, vì khoa thi đầu tiên ở nước ta được tổ chức vào năm Ất Mão (1075) dưới triều vua Lý Nhân Tông. Vì vậy, nhân vật Tống Trân trong giai thoại trên chính là ước mơ thành đạt của những người dân lao động bình thường. Và dù là giai thoại hay dân gian, truyền thuyết hay dân gian thì đó cũng là tiếng nói lên án những thế lực tàn bạo đã ngăn cản, chà đạp lên tình yêu; đồng thời ca ngợi tấm lòng kiên định, ý chí phấn đấu vì hạnh phúc, vì tình yêu thương của con người biết chống lại những thế lực và nhiều lễ giáo hà khắc. Nhờ đó, truyện Tống Trân đã xây dựng thành công hình mẫu người Việt Nam truyền thống, đặc biệt là người phụ nữ với tâm hồn phong phú, độc đáo.
Theo Baihocdoisong.com
xem thêm thông tin chi tiết: Chuyện về Tống Trân
Chuyên mục: Chuyện Xưa Tích Cũ
#Chuyện #về #Tống #Trân